Ánh hoàng hôn của An Tây như màu máu, trong đại doanh Thổ Phồn, tiếng trống giục giã vẫn đang ‘tùng! tùng!’ vỗ vang, một vạn năm nghìn quân Thổ Phồn như sóng trào xô cao, vỗ ập tới phía thành Thả Mạt, đây đã là lần công thành thứ ba trong vòng ba ngày của quân Thổ Phồn.
Trong đợt tiến công dò thám của ngày đầu tiên, quân Thổ Phồn chưa thể xông phá mưa tên dày đặc của quân Đường, tử thương mấy trăm người mà bại lui, Lần tiến công thứ hai, quân Thổ Phồn bị máy ném đá của quân Đường đánh đến xương gãy gân bong, tử thương nghìn người, buộc phải khua chiêng tạm thời thu binh.
Sau hai lần dọ thám, Thổ Phồn đã hiểu được các nước phòng thủ của quân Đường, xa thì phòng ngự bằng máy ném đá và máy nó, còn gần thì có cung tên, lúc này, Thượng Gia Tố đã nhận được tin tức, lại một cánh viện quân hai vạn người từ Lhasa qua đây đã đi đến đại doanh Thổ Phồn.
Sự đi đến của hai vạn viện quân này làm cho quân Thổ Phồn sĩ khí tăng mạnh, có sự hậu thuẫn của hai vạn người này, Thượng Gia Tố cũng lòng tin tăng mạnh, việc này đã khiến hắn có đủ binh lực năm vạn người, hắn bèn có thể tập trung binh lực, có thể nhất nhất công phá hết các thành bào của quân Đường, Lúc này thám tử của hắn cũng đã truyền đến tin tức, thủ quân của quân trấn Vu Điền không nhiều, cũng chính là nói, chỉ cần công chiếm được Thả Mạt trấn, toàn bộ phía nam sa mạc Đồ Luân đều bị quân Thổ Phồn chiếm lĩnh, cánh cửa lớn của An Tây cũng sẽ được mở toan ra.
Chính là sự đi đến của hai vạn viện quân làm cho Thượng Gia Tố đã hạ quyết tâm, phải không tiếc bằng mọi giá, chiếm lấy Thả Mạt thành.
Trong tiếng trống tiến công ầm ầm, một vạn năm nghìn đại quân Thổ Phồn chia làm ba phương trận, cùng nhau hướng về quân Đường tuyến đầu đẩy mạnh, nhân số dày đặc, từ trên vùng cao nhìn đi, quân Thổ Phồn màu đen dày đặc chi chít, đông như một đám kiến, bao trùm cả nguyên mảnh đất ngoài thành Thả Mạt.
“Tiến lên!” Trong tiếng trống, đại tướng Thổ Phồn cao giọng hô lên.
“Giết vào thành trì!”
“Tiến lên!”
Trong tiếng hò hét như sấm dội, đại quân Thổ Phồn tiến vào Thả Mạt thành như dời núi lấp bể, Lần này quân Thổ Phồn đã sử dụng rất nhiều vũ khí công thành, trước hết là bè, cũng chính là mười cây đại thụ cột vào nhau, những cây đại thụ này đều là cây dương đốn được từ vùng ốc đảo phụ cận, vừa thăng vừa dài, mỗi một cây đại thụ đều dài bốn năm trượng, giữ lại các chạc cây, sau khi đem chúng cột chặt lại, bèn trở thành cầu tàu tạm thời, làm cho quân Thổ Phồn có thể xông qua sông hộ thành, mấy trăm quân Thổ Phồn vác lấy một chiếc bè chạy vội, nó đồng thời cũng có thể chế ngự cung tiễn cũng như máy nỏ của quân Đường.
Tiếp theo là bì đấu, đây vốn dĩ là vũ khí phòng ngự của người Hán chế ngự cây lăn đá ném, bây giờ cũng đã bị người Thổ Phồn học được, cái gọi là bì đấu chính là một cái giá dùng gỗ thô dựng nên, bên trên đã che phủ mấy tầng da bò, da bò quết lên một lớp dầu trơn thật dày, rất trơn trượt, lại có góc lệch nhất định, khi cự thạch đập lên da bò, thì dễ bị bật lực trượt bay, cho dù không phải là mỗi phiến cự thạch đều có thể phòng ngự được, nhưng chí ít có thể phòng ngự được bốn thành cự thạch bắn ra.
Một chiếc bì đấu rộng ba trượng, dài năm trượng, phía dưới có trang bị bánh xe gỗ, có thể từ từ đẩy đi, mà ở phía dưới một chiếc bì đấu thì ẩn giấu được ba bốn trăm binh sĩ Thổ Phồn.
Trong tiếng trống chiến, một vạn năm nghìn đại quân Thổ Phồn đã phát động, bè, bì đấu, thang dài cùng với đại quân Thổ Phồn rầm rộ đã hội tụ thành một đợi nước lũ màu đen đồ sộ cuốn đến thành trì.
Trên đầu thành, quân Đường đã chuẩn bị sẵn sàng, hai mươi chiếc máy ném đá hạng nặng hai bên đông tây kêo cả kẽo kẹt kéo căng ra, trong túi ném da đã đặt lên một phiến đá cự thạch nặng một trăm mười cân, mỗi một chiếc máy ném đá cần một trăm năm mươi người kéo đây, quân Đường không thế nào chia ra nhiều binh lực như vậy, bèn do quân Đường chỉ huy, ba nghìn dân phu của thành Thả Mạt phụ trách kéo đẩy máy ném đá.
Đại quân Thổ Phồn càng lúc càng gần, đã bước vào được vạch tám trăm bước, nếu như là chiếc máy ném đá loại siêu lớn của hai trăm người thì có thể ném bắn được rồi, nhưng máy ném đá của Thả Mạt thành hơi nhô, tầm bắn chỉ có năm trăm đến sáu trăm bước xa, tướng Đường phụ trách chỉ huy máy ném đá là lang tướng La Thắng Quân, đây cũng là một tướng lĩnh thuộc dạng thực chiến từ tiểu binh từng bước từng bước đi lên chức vị tướng quân, hắn là thủ tướng của thành Tát Bì, được lệnh của Hạ Lâu Dư Nhuận, thiêu hủy Tát Bì thành, rút lui về Thả Mạt thành.
La Thắng Quán dõi theo làn sóng tiến công của quân Thổ Phồn từng từng bước từng bước ép sát thành trì, mũi giáo tiền quân đã đến bảy trăm bước rồi, máy nỏ của quân Đường đã bắn ra, Ba trăm chiếc thiết tiền dài bốn thước và vô số tên nhỏ dày đặc cùng nhau bắn về phía đại quân Thổ Phồn, trong quân Thổ Phồn khắp nơi người ngã ngựa đổ, mấy trăm binh sĩ Thổ Phồn bị bắn ngã, dục vọng xạ kích mãnh liệt lôi cuốn lấy La Thắng Quân, nhưng cờ đỏ trong tay hắn cuối cùng vẫn không phất xuống, cờ đỏ không phất xuống, hai mươi quân Đường chỉ huy thủ bèn không dám hạ mệnh lệnh xạ kích.
Sáu trăm bước, quân Thổ Phồn cuối cùng đã bước vào tầm bắn của máy ném đá, cờ đỏ trong tay La Thắng Quân cuối cùng đã phất xuống, “Bắn!” Hai mươi quân Đường chỉ huy thủ gần như là đồng thời xé tiếng thét to.
Máy ném đá hạng nặng đã phát động, hai mươi chiếc đòn bẫy dài dài vung ra, đem hai mươi phiến đá tảng to đập vào trong trận doanh Thổ Phồn, Cự thạch phát ra tiếng rít vít vít, xoay nhanh trong không trung, tốc độ cực nhanh mà xuất hiện trên đỉnh đầu của quân Thổ Phồn, binh sĩ Thổ Phồn gào lên liên hồi, đồng loạt né dạt sang hai bên, hoặc là núp vào trong bì đấu.
‘Uỳnh!’ một tiếng va mạnh, cự thạch đập xuống, cát bụi tung bay, mấy binh sĩ Thổ Phồn trốn tránh không kịp, bị đập thành thịt vụn, sức xông kích mạnh mẽ làm cho cự thạch tiếp tục quay tròn, trực tiếp xông vào trong đám đông binh sĩ Thổ Phồn, nhất thời tiếng thảm kêu inh ỏi, mười mấy binh sĩ bị đập chết, máu bắn tung tóe, toàn khối cự thạch bị nhuốm thành màu đỏ.
Lại là một tiếng vang to, một khối cự thạch đập trúng vào bì đấu, ‘bùng’ một tiếng chấn động mạnh, sự trơn trượt của bì đấu làm cho cự thạch bị mài đi góc cạnh không thể nào đánh hết lực, trượt bay ra ngoài hơn hai mươi mấy bước, khối cự thạch này không đạt được hiệu quả.
Nhưng bì đấu không phải là mỗi một khối đá lớn đều có thể chịu đựng được, điều này còn quyết định ở trình độ nhẵn bóng của bản thân khối đá, nếu như khối đá thô ráp sồ sề, vậy thì bì đấu sẽ rất khó phát huy hiệu quả.
Lại một tiếng đập mạnh, cùng với tiếng xé toạt của khung giá, một chiếc bì đấu bị đập sụp, mấy trăm binh sĩ Thổ Phồn giấu mình dưới bì đấu loạng choạng bỏ ra, không ít người bị cột gỗ đổ sụp đập thương, đau đớn rên rĩ dưới bì đấu.
Đợt phát bắn lần hai của máy ném đá được tiếp tục, hai mươi khối đá ở trên không xoay tròn, rít gió đập tới, đập đến các binh sĩ Thổ Phồn người ngã ngựa đổ, máu thịt bay tứ tung, bì đấu vỡ vụn, bè gãy đứt. Sát theo đó là đợt phát bắn lần ba, lần bốn.., mỗi một đợt ném đá phát bắn bèn có mấy trăm người thương vong, cho dù máy ném đá uy lực cực lớn, nhưng dù sao số lượng ít, không thể hình thành sức sát thương cực lớn, hơn một vạn đại quân Thổ Phồn đã kéo ùa đến dưới thành, trên thành quân Đường vạn tiễn cùng bắn, tên như mưa đá nước trút, che trời lấp đất mà bắn đi phía quân Thổ Phồn.
Quân Thổ Phồn giơ khiêng nghênh đỡ, không ngừng có người trúng tên chết thảm, trong cơn mưa tên, mấy nghìn binh sĩ Thổ Phồn mang các chiếc bè dài mấy trượng ‘ầm!’ lên đặt vào trên sông hộ thành, bắt đầu bỏ lên phía trên, đã hình thành hai mươi mấy chiếc cầu cây tạm thời, Từng chiếc từng chiếc thang rộng lớn cao tám trượng kê lên trên đầu thành, từng đám từng đám binh Thổ Phồn hung hãn xông lên thang, bắt đầu bỏ lên phía trên, mưa tên của quân Đường bắn nghiên mà đến, gỗ lăn đá ném đập xuống dưới đầu, từng lớp từng lớp binh sĩ Thổ Phồn kêu thảm từ trên chiếc thang ngã xuống, trên người bị tên bắn trúng, đầu bị đập nát, dưới tường thành tử thi chất đống như núi, tiếp theo đó lại có binh sĩ Thổ Phồn điên cuồng leo lên thang, bất chấp tất cả mà xung phong.
Lúc này, trong đại doanh Thổ Phồn lại một lần nữa vang lên tiếng trống, lại một vạn kỵ binh Thổ Phồn lao đến như bay, cát bụi mù mịt, Bọn họ là dùng tốc độ nhanh nhất xuyên qua trong đoạn từ bốn trăm bước đến tám trăm bước trong khu tầm bắn của cự thạch và máy nỏ, cự thạch rít gió mà đến, từng lớp lóp kỵ binh đập nhào, tên của máy nó mạnh mẽ nhanh nhẹn, một mũi tên bèn có thể bắn xuyên qua hai đến ba người, chiến mã hí lên thê thảm, binh sĩ ngã nhào, dưới đá tảng, khắp nơi đều là thi thể và máu me thê thảm đến mức không dám nhìn.
Giờ phút này, quân Thổ Phồn đã đưa vào hai vạn năm nghìn binh sĩ công thành, trận chiến công phòng thành trì đã bước vào giai đoạn gay cấn nhất.
Vào lúc trận chiến công thành ở thành Thả Mạt bước vào ngày thứ ba, bốn vạn chủ lực kỵ binh của quân Đường đã đi đến biển Bồ Xương cách thành Thả Mạt khoáng ngoài xa năm trăm dặm. Biển Bồ Xương cũng chính là sông Lop Nor ngày nay, Lop Nor của triều Đường vẫn là một vùng biển cả rộng lớn bát ngát, độ mặn cũng không lớn như ngày nay, xung quanh sinh trưởng cây ngô đồng và lùm cây thân gỗ thấp có sức sống rất mạnh mẽ.
Biển Bồ Xương của triều Đường là con đường nam chí tuyến tất yếu phải đi qua của con đường tơ lụa tây tuyến. Từ Sa Châu ra Dương Quan đi sang hướng tây ba trăm dặm bèn đi đến được biền Bồ Xương, sau đó tiếp tục men theo sông Thả Mạt đi hướng tây nam, bèn có thể đi đến Thả Mạt thành, ở dọc đường có một vùng ốc đảo rộng lớn, là nơi chu cấp quan trọng của thương nhân cũng như quân đội, cũng chính là Tân Cương Nhược Khương huyện ngày nay, quân Đường ở nơi đó đã tu kiến bốn tòa tiểu thành là Nỗ Chi, Điền Hợp, Bồ Đảo và Thất Truân, trở thành một căn cứ quân sự quan trọng của quân Đường, chiến dịch Bá Tiên trấn đối với Thổ Phồn vào năm Thiên Bảo thứ mười một trên lịch sử chính là xảy ra ở nơi này.
Khi bốn vạn quân của Lý Khánh An đi đến vùng ốc đảo này, sấc trời đã từ từ tối rồi, ba vạn quân Đường từ Lũng Hữu chạy sốt vó ngựa kéo đến, đã trải qua thời gian gần một tháng, mắt thấy sắp phải đi đến chiến trường, Lý Khánh An ngược lại không còn vội vã nữa, để làm hết khả năng duy trì thể lực tác chiến của quân Đường, Lý Khánh An hạ lệnh quân Đường trú đóng ngay tại chỗ, sau khi nghỉ ngơi một đêm mới xuất phát.
Dưới màn đêm, tướng sĩ quân Đường hành quân mệt nhoài đều đã đi vào giấc ngủ, chỉ có hơn một nghìn binh tuần canh đi tuần tra ở bốn bề đại doanh, Trong đại doanh, trong đại trướng chủ tướng của Lý Khánh An vẫn đèn đuốc sáng trưng, một chiếc sa bàn không lồ rộng ba trượng, dài năm trượng đã ghép xong, đặt ở giữa đại trướng, chiếc sa bàn này thâu tóm hết ngoại trừ Sindh ra toàn bộ đất khống chế của toàn quân An Tây, là thành quả do gần ngàn binh xích hầu An Tây mất gần một năm mới chế tạo thành.
Bên sa bàn Lý Khánh An và mấy đại tướng tùy quân đang thương nghị quân tình, Lần này Lý Khánh An từ Lũng Hữu trở về, không hề đi cao nguyên phía nam của Kỳ Liên sơn, mà là xuyên qua vào Đại Đấu Bạt cốc, tiến vào Cam Châu. Chính vì đã đánh một vòng lớn, làm cho nhật trình hành quân của bọn họ trễ đi vài ngày, nhưng Lý Khánh An càng suy nghĩ đến sức chiến đấu và cấp dưỡng của quân Đường, vì vậy sau khi ba vạn quân Đường tiến vào Hà Tây, lại đem theo năm vạn con chiến mã, đồng thời Lệ Phi Thủ Du của Hà Tây lại chia ra một vạn tinh nhuệ đi theo Lý Khánh An cùng đi đến An Tây.
Lý Khánh An đứng trước sa bàn trầm tư rất lâu, hắn đang suy nghĩ toàn bộ chiến cục, Trận chiến Thả Mạt thành chỉ là một khâu trong toàn bộ chiến cục, hắn biết rằng người Hồi Hột nhập xâm hang ổ của người Cát La Lộc, gần như là đem người Cát La Lộc chém tận giết tuyệt, nhưng phía nam có thành Y Lệ, bảy tòa thành bảo thành Cung Nguyệt do quân Đường xây dựng, Toái Hiệp lại có hai vạn quân bắc tiến, kỵ binh Hồi Hột rất khó đột phá tuyến phòng ngự này.
Hắn đã hạ lệnh sáu vạn liên quân tam hồ chia binh hai lộ, một lộ do quân Cát La Lộc đi phía bắc Kim Sơn ngăn chặn lại đường lui của người Hồi Hột, một lộ khác do quân Đồng La và quân Sa Đả đi phía nam Kim Sơn đi đến Huyền trì, từ chính diện ngăn chặn quân Hồi Hột tiến vào Bắc Đình, nhưng để ngăn chặn người Hồi Hột lại thừa cơ xuất binh tiến công Bắc Đình, sáu nghìn quân Hán của Thôi Càn Hữu bèn lưu lại Bắc Đình.
Từ một mức ý nghĩa nào đó, người Cát La Lộc bị chém tận giết tuyệt cũng phù hợp với kỳ vọng của hắn, cứ đề những người Hồ trên thảo nguyên này đi tàn sát lẫn nhau.
Tuy An Tây đã gặp phải nam bắc giáp công, cục thế vô cùng bất lợi, nhưng Lý Khánh An cũng đã phát hiện một số chỗ kỳ diệu của việc địch quân đại cừ tiến công, chủ yếu chính là binh lực của kẻ xâm nhập không nhiều, Hồi Hột chi phái ra ba vạn người, loại xuất binh này không giống như việc tiến công mang tính chiến lược, có một thứ ý nghĩa là nhân lúc cháy nhà mà đi hỏi của thì đúng hơn, điều này cũng đã chứng thực được phán đoán của Lý Khánh An, quân Hồi Hột trải qua sự cắt giảm suy yếu nhiều năm, đã không còn sức lực phát động chiến tranh xâm Đường quy mô lớn nữa, vì vậy chỉ có thể phái ra ba vạn người, tiến hành một sự tiến công với hình thức đánh lén cường đạo.
So với việc nam xâm của quân Hồi Hột, Lý Khánh An chủ tâm nhiều hơn đến lần tiến công An Tây này của quân Thổ Phồn, rất hiển nhiên, đây là sự hỗ trợ lẫn nhau với việc tiến công Lũng Hữu của quân Thổ Phồn, đây là sách lược nhất quán của quân Thổ Phồn, mấy lần phát động chiến dịch xâm Đường, người Thổ Phồn thường đều là hai tuyến đông tây song song tiến hành, từ việc quân Thổ Phồn đã xuất động ba vạn quân tiến công Thả Mạt thành xem ra, nhân số tựa hồ có chút ít ỏi, bọn họ rất có thể còn có ý đồ chiến lược khác nữa.
Lúc này, đại tướng An Bảo Chân ở một bên thấp giọng nói: “Đại tướng quân, ty chức có một điểm kiến nghị.”
An Bảo Chân chính là em trai út của Vũ Lâm đại tướng quân An Bảo Ngọc, năm nay chỉ có hai mươi bốn tuổi, tuổi trẻ tài cao, hắn mười bảy tuổi tòng quân ở Lũng Hữu, năm xưa đi theo Lý Quang Bật cùng đến An Tây, từ một đội chính từ từ tích công thăng làm trung lang tướng, rất được sự yêu thích của Lý Quang Bật, lần này Lý Khánh An từ Lũng Hữu tây quy, Lý Quang Bật chia binh một vạn đi theo, hắn đã tiến cử An Bảo Chân cho Lý Khánh An.
Lý Khánh An cũng rất yêu mến vị tướng quân trẻ tuổi này, hắn bèn gật đầu cười nói: “Ngươi nói đi.”
An Bảo Chân luôn đi theo Lý Quang Bật ở Thổ Hỏa La, hiểu rất rõ tình thế ở bên đó, hắn bèn khom người nói: “Đại tướng quân, ta nghi ngờ chủ lực của quân Thổ Phồn là muốn tiến công Thổ Hỏa La, sau khi Lý tướng quân từ Thổ Hỏa La trở về Lũng Hữu, quân Đường của Thổ Hỏa La chỉ có tám nghìn người, chủ yếu trú phòng ở mấy mỏ bạc lớn, Thổ Hỏa La chỉ có quân đội bản địa hơn bốn vạn người, sức chiến đấu của bọn họ rất yếu, sẽ không phải là đối thủ của quân Thổ Phồn, hơn nữa quân Thổ Phồn tiến công Thả Mạt, ty chức lo lắng mục đích cuối cùng của bọn chúng là Sơ Lặc, chiếm cứ Sơ Lặc, ngăn chặn quân Đường An Tây chi viện Thổ Hỏa La, ty chức thiên kiến, xin đại tướng quân suy xét.”
Lý Khánh An không nói gì, thật ra điều hắn nghĩ đến cũng là khả năng này. Bây giờ thế lực của quân Đường đã từ Bắc Đình hướng tây nối tiếp đến Hà Trung, hướng nam trải dài đến Sindh, nếu như hắn là tán phổ Thổ Phồn, vậy thì nếu muốn trường kỳ kháng chiến với quân Đường, thì bắt buộc phải lựa chọn một căn cứ địa có lợi nhất, Thổ Hỏa La rõ ràng là một lựa chọn tốt nhất không cần bàn cãi, hướng bắc có thể đánh Toái Hiệp, hướng tây có thể công Hà Trung, hướng đông có thể chiếm An Tây, hướng nam có thể xuống Sindh, hơn nữa lại nối liền nước non cao nguyên Thổ Phồn, cho dù không thủ được cũng có thể lui về cao nguyên, ngoài ra, Thổ Hỏa La thịnh sản lương thực, cũng có thể cung cấp nguồn hậu cần dồi dào không cạn kiệt cho quân Thổ Phồn.
Nghĩ vậy, hắn bèn lấy qua mấy lá cờ nhỏ, theo thứ tự cắm lên trên Đại Bột Luật và Thổ Hỏa La, sở dĩ không cắm Tiểu Bột Luật, là vì hắn biết được, quân Thổ Phồn không qua được Sa Di hà.
Lý Khánh An đã khẳng định chiến lược tây chinh của quân Thổ Phồn, đánh An Tây là phụ, đánh Thổ Hỏa La mới là chính.
Lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng bẩm báo của một quan quân tuần tra: “Đại tướng quân, đội tuần canh của chúng ta ở trong chốn hoang dã ngoài năm mươi dặm phát hiện ra hai binh sĩ quân Đường, bọn họ đều thân mang trọng thương, thân thể vô cùng suy yếu, nhưng bọn họ nói có tình báo quan trọng phải bẩm báo với đại tướng quân.”