Ý thu trên thảo nguyên ngày tháng chín đã nồng hậu, gió bắc ào ạt, cỏ dài tựa mái tóc mượt mà của phụ nữ cũng bắt đầu khô dần, bên bờ hồ Tát Bì Trạch phía nam của núi Aerhchin, sau ba năm bình lặng, giờ không khí nơi này lại ngày một căng thẳng.
Tát Bì Trạch vốn dĩ là nơi người Thổ Phồn thả mục chăn nuôi, và cũng là nơi hậu cận trọng địa của người Thổ Phồn tấn công An Tây. Sau khi bố trí quân đội tại vùng này của quân Thổ Phồn đã bị quân An Tây toàn bộ tiêu diệt từ ba năm trước, nơi đây được quy vào quản hạch của trạm gác Thả Mạt, quân dân cộng dụng. Ngoài dân du mục đến đây cho gia súc ăn, còn có một đội quân Đường chừng hai mươi người trú thủ tại đây. Quân Đường cho xây một tòa thành bảo có thể dung nạp ngàn người tại sườn núi cao của Tát Bì Trạch, và cho xây phong hỏa đài dọc đường liên thông với phong hỏa Thả Mạt thành, trở thành cảnh báo tiền tuyến cho phía nam An Tây khi quân Thổ Phồn đến xâm phạm.
Do Thổ Phồn đến xâm phạm phía bắc càng lúc càng rõ, quân phương An Tây cũng không ngừng gia tãng phòng ngự phía nam An Tây, Tứ trấn đô tư mã sử Hạ Lâu Dư Nhuận đích thân dẫn năm ngàn quân từ Quy Tư đến Thả Mạt thành, đồng thời gia tăng quân trú thủ tại Tát Bì Trạch lên một ngàn người, và đưa dân du mục rút về Thả Mạt thành.
Trưa ngày hôm đó, một đội quân tuần tra Đại Đường chừng năm mươi người đương đi tuần tra tại vùng đổi Tát Bì Trạch, nơi đây cách Tát Bì thành mới xây chừng một trăm hai mươi dặm, hiếm khi có bóng người, đâu đâu đều là rừng rậm nguyên thủy, chủ yếu là rừng thông và rừng sam là chính, phía đồi núi thấp kia là thảm cỏ dày đặc, đản linh dương hốt hoảng phóng qua vì bị kinh động lập tức bỏ chạy vào rừng.
Lúc này, đội tuần tra của quân Đường cách đấy không xa phóng đến dừng lại phía trước một con suối nhỏ, Đội chính đi đầu quân Đường là một thanh niên chừng hai lăm, hai sáu tuổi, tên hắn là Lâm Mục, là người Hán Cao Xương tòng quân từ năm năm trước, Hắn có khuôn mặt màu đồng, thân hình cao to, da dẻ ngâm đen, dung mạo tuấn tú, hai bàn tay to một cách khác thường. Giờ hắn lưng đeo cung tiễn, tay cầm giáo trường, ánh mắt đăm đăm nhìn về dãy núi Aerhchin phủ đầy tuyết trắng nơi xa, chỉ thấy sương khói mông lung bao trùm trên đỉnh tuyết, đấy là điềm báo sắp mưa, Lưu Mục dùng giáo trường chỉ vào rừng hạ lệnh: “Vào trong rừng tạm nghỉ chân một lát!”
Quân Đường đồng loạt quay đầu ngựa phóng về phía khu rừng thông nguyên thủy trải dài, chỉ một lát họ đã vào đến rừng. Trong rừng bóng râm dày đặc, ánh sáng âm u, dưới đất như được trải một lớp thảm lá thông dày và mịn như nhưng, hoàn toàn không có chút dấu tích từng của con người, chỉ có vài chú sóc lém lĩnh nhảy lóc cóc trên cây hiếu kỳ nhìn họ.
Quán Đường tìm được một vùng đất bằng phẳng khô khan, lũ lượt nhảy xuống ngựa, lấy túi nước ra để giải khát cho ái mã của mình, xong xuôi lại tìm một gốc cây để ngồi lại nghỉ ngơi ăn lương khô.
Một binh sĩ nhỏ nhắn trẻ tuổi chạy đến bên Lâm Mục, cười hí hửng nói: “Đội chính, phía trên có tin tức gì, huynh tiếc lộ chút ít với bọn đệ với!”
“Ta chỉ là một đội chính nhỏ bé thì có thể biết được tin gì. Ngươi đừng có mà tò mò nữa, mau đi nghỉ ngơi đi.” Lâm Mục vừa uống nước vừa cáu gắt nói.
“Nhưng huynh là đội chính mà, thế nào điều huynh biết cũng nhiều hơn bọn đệ.”
“Đúng rồi, đội chính, huynh tiết lộ một chút đi! Nghe nói sắp có chiến tranh rồi, có phải thật không?” Một lão binh bên cạnh cũng cười hỏi.
“Đội chính, huynh nói đi mà!”
Lâm Mục thấy tất cả mọi người đều quay sang hỏi mình, chỉ đành nói: “Ta biết cũng không nhiều đâu, nghe nói Thổ Phồn đã bắt đầu tấn công Lũng Hữu, vậy chúng ta càng phải hành động nhanh hơn, Hạ Lâu tướng quân dẫn năm ngàn quân chi viện đã đến thành Thả Mạt, Ta đoán chừng giờ người Thổ Phồn cũng đã bắt đầu tiến công An Tây rồi.”
Tất cả binh sĩ đều lập tức vây quần lại, mỗi người một lời ngồi bình luận, một lão binh đã nói: “Thả Mạt thành vốn dĩ có hai ngàn quân đội trú thủ, cộng thêm năm ngàn người nữa sẽ được bảy ngàn. Trong ấn tượng của ta người Thổ Phồn mỗi lần không đến thì thôi, chứ đến thì thế nào cũng kéo vài chục ngàn người đến. Chúng ta làm sao có thể đánh lại đại quân Thổ Phồn cơ chứ?”
“Người Thổ Phồn lợi hại lắm sao?” Tên lính trẻ vừa nãy hỏi.
“Đó là đương nhiên, người Thổ Phồn tuy dáng hình đều không cao lắm, nhưng được cái lại rất ư cường tráng rắn chắc, sức lực lại lớn, hơn nữa ai ai cũng rất hung hãn, thà chiến tử chứ không chịu lùi, phải chiến tử hơn sáu phần người thì họ mới chịu rút lui, còn lợi hại hơn quân Đại Thực.”
“Vậy vũ khí thì sao? Không lẽ vũ khí của họ còn mạnh hơn chúng ta sao?”
“Cung tiễn tất nhiên không bằng chúng ta, vũ khí chính họ dùng là kiếm, cũng không được sắc bén như hoành đao của chúng ta, vũ khí công thành lại càng không bằng chúng ta, nhưng được cái áo giáp xích của chúng không đến nỗi tồi, nặng tới vài chục cân, được làm bằng thép sống, Loại tiễn kim xuyên giáp của chúng ta chính là được đặc chế để đối phó giáp xích của quân Thổ Phồn.”
Lão binh ngồi miêu tả người Thổ Phồn nghe hung hãn đáng sợ, khiến rất nhiều lính trẻ trong mắt đều lộ vẻ lo lắng. Lúc này, Lâm Mục khoát khoát tay cười nói: “Kỳ thực người Thổ Phồn cũng không đáng sợ đến thế. Tại trận chiến Thạch Bảo thành năm xưa, đại tướng quân của chúng ta không phải đã dẫn ba ngàn quân Đường huyết chiến gần mười vạn quân Thổ Phồn sao? Chưa kể chiến dịch Tát Bì Trạch ba năm trước, không phải cũng đánh bọn quân Thổ Phồn kia khóc cha khóc mẹ đó ư? Kỳ thực quân An Tây chúng ta mới là đội quân mạnh đệ nhất thiên hạ, dù là Thổ Phồn hay người Đại Thực đi chăng nữa đều không phải đối thủ của chúng ta. Và quan trọng hơn nữa, chỉ có khai chiến thì chúng ta mới có cơ hội lập công, các ngươi đã hiểu rõ chưa? Nếu không có chiến tranh, thì chúng ta sẽ không có cơ hội lập công để thăng tiến, chúng ta sẽ mãi mãi vẫn là vô danh tiểu tốt.”
Bỗng nhiên, binh sĩ canh gác ngoài rừng chạy vội vào, trong tay hắn là một con tiểu linh dương, hắn hốt ha hốt hoảng nói: “Đội chính, huynh mau nhìn con linh dương này.”
Lâm Mục thấy trên mình linh dương bị trúng một cây tiễn ngắn, bèn cười nói: “Bảo tên tiểu tử ngươi đi canh gác, ngươi không gác đàng hoàng mà chạy đi săn à?”
“Nhưng cây tiễn này không phải của thuộc hạ bắn.”
“Cái gì?!” Chúng binh sĩ nghe một giật nảy mình, không khỏi ngơ ngác nhìn nhau, rốt cuộc đây là thế nào?
Lâm Mục phóc một cái đứng dậy, hắn bước nhanh đến trước con tiểu linh dương, rút cây tiễn cắm trên mình nó ra đặt trên tay quan sát cẩn thận. Cây tiễn này chỉ dài năm tắc, ngắn hơn nhiều so với tiễn tiêu chuẩn của quân Đường. Tên lão binh bên cạnh buộc miệng thốt lên: “Là tiễn của người Thổ Phồn!”
Lâm Mục gật gật đầu, hắn quay sang khẽ giọng nói với mọi người: “Mọi người không phải hoảng hốt, mang khống chế lại chiến mã, đừng để chúng kêu la, chúng ta hiện nay đang ở chỗ tối, người Thổ Phồn chắc vẫn chưa phát hiện ra ta.”
Mọi người lũ lượt lấy cung tiễn đằng sau lưng xuống, kéo cung vào đặt tiễn, vây thành một hình bán nguyệt.
Những binh sĩ này dù là lão binh tân binh đều đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, đều biết lúc mấu chốt phải giữ sự thống nhất cao độ, Lâm Mục và hai lão binh cùng phòng về phía bìa rừng. Vừa đến gần bìa rừng thì họ lập tức trốn ra sau hai cây đại thụ, chỉ thấy bên bờ suối nhỏ cách đấy chừng hai trăm bước đương có một đám quân Thổ Phồn đang rửa mặt, chúng có khoảng ba bốn mươi người, mỗi người đều có ngựa riêng, xem ra chúng chính là tuần tra của quân Thổ Phồn.
“Đội chính, làm sao đây?”
Lâm Mục trầm mặt lại suy ngẫm một hồi, xong bèn thủ thỉ vài câu bên tai một tên lão binh, lão binh nhoẻn miệng cười, “Đây là một cách hay! Tên tiểu tử kia mặt mày còn phụ nữ hơn cả phụ nữ, hắn nhất định sẽ có thể dụ bọn quân Thổ Phồn đến đây.”
Đội tuần tra của Thổ Phồn này là của tiền quân Thổ Phồn, chúng phụng mệnh đến tra thám tình hình Tát Bì Trạch. Chúng đã đi tuần hơn nửa ngày, đến lúc trưa thì bắt gặp được bên này có con suối nhỏ nên đến đây uống nước nghỉ ngơi. Hứng đầy nước cho bình nước tùy thân, đương định lên đường thì bỗng nghe từ xe có tiếng vó ngựa vọng lại.
Tính cảnh giác của tuần tra Thổ Phồn tương đối cao, bọn họ lập tức rút kiếm cầm giáo nhìn về phía tiếng vó ngựa. Nghe tiếng vó ngựa xem chừng chỉ có một người. Lúc này, chỉ thấy một cô gái trẻ từ phía bìa rừng chạy ra. Màu đỏ tươi rực rỡ đã không ngừng kích thích dục vọng của những người lính này, bọn chúng mừng rỡ, lũ lượt phóng lên ngựa định sẽ chặn cô gái trẻ này lại.
Cô gái chạy nhanh đến gần bờ suối thì bỗng nhìn thấy binh sĩ Thổ Phồn, nàng sợ hãi thét lên, lập tức quay đầu ngựa chạy trở về phía rừng. Bọn binh sĩ Thổ Phồn sao lại có thể để miếng thịt đến gần miệng chạy thoát, chúng ai ai đều như lang như sói, hưng phấn gào rú lên đuổi theo về phía rừng. Ánh mắt mỗi binh sĩ đều nhìn chằm chằm vào sắc đỏ trong rừng.
Trong rừng, quân Đường đã chuẩn bị sẵn sàng, bọn họ lập tức giương cung đặt tiễn, lẳng lặng trốn sau câu để đợi chờ cá cắn câu, Lúc này, “nữ tử” áo đỏ đã đang phóng nhanh đến, vừa phóng “nàng” vừa học tiếng nữ nhân lớn tiếng mắng rủa: “Bọn vương bát các ngươi, lão tử xém chút đã bị bọn người Thổ Phồn tóm được!”
Tiếng vó ngựa vội vã đằng sau đã át tiếng rủa của hắn, hắn nhanh chóng băng qua khỏi vùng đất bị mai phục, chỉ trong một chốc, binh sĩ Thổ Phồn đã tranh nhau đuổi theo đến, chúng vẫn hưng phấn hét hò, dục vọng của nam nữ đã làm giảm tính cảnh giác của chúng, khiến chúng tạm quên đi nguy hiểm phía trước.
Chính ngay trong tích tắc họ vừa xông vào đến vùng mai phục, quân Đường chực chờ sẵn lập tức phát động, cùng phóng cung tiễn. Gần năm mươi cây cung tiền đồng thời bắn về phía đám quân Thổ Phồn, Quân Thổ Phồn trở tay không kịp, lập tức có mười mấy người bị bắn ngã, thảm kêu rơi xuống ngựa.
Biến cố bất ngờ khiến bọn binh sĩ Thổ Phồn bàng hoàng, bọn chúng sợ mất vía, lập tức quay đầu bỏ chạy, quân Đường nhanh tay lẹ chân lại cho thêm một đợt mưa tiễn tấn công, lại có mười mấy người trúng tiền ngã xuống, chỉ còn lại bảy tám người cuối cùng phóng về phía bìa rừng bỏ trốn. Quân Đường lập tức chia làm hai lộ, mười lãm quân Đường ở lại giết chết những người Thổ Phồn ngã ngựa, những người còn lại đuổi theo bọn quân Thổ Phồn bỏ chạy.
Đội chính Lâm Mục đi đầu, tiễn pháp của hắn cực tốt, bắn liền ba tiễn đánh ngã binh sĩ Thổ Phồn, và liền sau đó lập tức rút giáo trường ra đâm chết quân địch đã ngã ngựa.
Quân Đường vẫn đuổi theo mãi, đuổi đến hơn hai mươi dặm phía nam, cuối cùng mới giết chết hai tên lính Thổ Phồn cuối cùng, tổng cộng ba mươi bảy tên tuần tra Thổ Phồn bị quân Đường giết chết, một tên bị bắt sống, định sẽ tra khảo tình báo.
Lâm Mục thở dài nhẹ nhõm một tiếng, đương chuẩn bị quay về, thì bỗng phát hiện tiếng tù và trầm bổng từ xa, Tất cả quân tuần tra Đường giật mình, lũ lượt quay đầu, chỉ thấy trên một ngọn đổi không cao ngoài hai dặm đó đâu đâu toàn kỵ binh Thổ Phồn, ít nhất vài ngàn người, lá cờ đen phấp phới phi vũ trên không.
Quân Đường kinh hoảng lùi liền ra sau, bọn họ đều có phần không biết phải làm sao, may sao Lâm Mục lập tức một đao chém chết tên tù binh Thổ Phồn, lập tức lớn tiếng hô hào: “Gọi các anh em mau chạy, quay về Tát Bì thành báo tin, nói đại quân Thổ Phồn đã đến.”
Nghe tin kỵ binh quân Đường quay đầu phóng vội về phía bắc, Lúc này, đại quân Thổ Phồn nhưng tảng băng vỡ của núi tuyết, phân ra một đội kỵ binh vài trăm người, một trái một phải phóng về hướng của đội tuần tra Đại Đường này.
Đội quân Đường tuần tra này đang bên bờ vực thẳm của cái chết, lúc này tác dụng của việc huấn luyện có độ mọi ngày cuối cùng cũng bộc lộ. Bọn họ không ai đào tẩu tán loạn, mà nhanh chóng gộp lại thành đội kỵ binh hoàn chỉnh trở về theo đường cũ, Lúc này, một con chiến mã quân đường do giẫm phải ổ gà, chân cốt bị gẫy, kêu rít lên thảm thiết rồi ngã ầm xuống, làm chủ kỵ binh quân Đường trên lưng ngựa cũng bị hất đi xa ngoài ba trượng. Các quân sĩ khác cũng không ai bỏ hắn lại, mà chỉ bỏ cây cung vào đôn bài đeo đằng sau, rồi kéo huynh đệ vừa ngã kia lên chiến mã, tiếp tục phóng về phía trước.
Cùng với thời gian qua đi, nỗi sợ hãi lúc mới đụng độ đại quân Thổ Phồn cũng dần tan biến, binh sĩ tuần tra quân Đường cũng phát hiện được ưu thế tuyệt đối của mình, với chiến mã Đại Uyên thượng thặng của mình, phóng băng băng trên thảo nguyên vùng cao rộng thênh thang này, bỏ lại những con ngựa Thổ Phồn thấp dáng càng lúc càng xa.
Sau khi đuồi được ba mươi dặm, truy binh của Thổ Phồn từ khoảng cách hai dặm ban đầu giờ đã dần dần cách đến năm sáu dặm, Quân Thổ Phồn đuổi theo cũng dần biến thành một chấm đen càng lúc càng nhỏ, rồi biến mất hẳn từ cuối chân trời đằng sau.
Ngay tại lúc này, một trận cuồng phong nổi lên, mưa cũng ùn ùn kéo đến, trong mưa còn có xen lẫn những hạt mưa đá to tựa trứng sà, những hạt mưa đá trong suốt trắng toát rơi nhảy lạch bạch dưới đất, trông như vũ điệu thuần khiết của ngày thu, Trong thời khắc mưa đá vừa ập đến, các binh sĩ quân Đường lại lập tức xông vào khu rừng mà họ đã phục kích quân Thổ Phồn vừa rồi.
Thật ra ngày thu của An Tây ít khi có hiện tượng khí hậu kỳ lạ như trong mưa lại có xen mưa đá kiểu này, nhưng Tát Bì Trạch lại không lấy gì làm lạ, Phía bắc Tát Bì Trạch là núi Aerhchin, còn phía nam là núi Côn Luân, Tát Bì Trạch nằm ngay giữa hai dãy núi lớn, nên nó cũng tựa như một cốc địa khổng lồ. Vì địa hình đặc biệt nên đã tạo thành khí hậu khác với cao nguyên An Tây của nó, Đây nay hai mùa xuân thu đều thường hay xuất hiện mưa đá dữ dội.
Sự thay đổi của tiết trời đã cứu sống đội tuần tra quân Đường này, đại quân Thổ Phồn đã dừng truy kích, bọn họ cũng trốn vào một khu rừng gần đấy trú mưa, Đội đại quân Thổ Phồn này chính là tây lộ đã phải vượt đường xa từ Lhasa đến của chúng, Bọn chúng chỉ là tiền quân, do ba vạn đại quân hợp thành, còn đội tuần tra của quân Đường chẳng qua có vài ngàn người.
Chủ tướng của đội quân Thổ Phồn này chính là phó soái Tây chinh quân Thượng Gia Tố, hắn là một lão tướng Thổ Phồn có kinh nghiệm phong phú, Năm xưa trong trận chiến Tiểu Bột Luật của quân Đường, Thượng Gia Tố chính là chủ tướng Thổ Phồn của Tiểu Bột Luật, lúc ấy hắn đã dẫn hai vạn quân Thổ Phồn đóng tai bờ bên kia của sông Sa Di (*sông Gilgit ngày nay), lúc ấy chính vì Lý Khánh An dẫn xích hầu doanh cắt đứt cầu mây trên sông Sa Di, mới khiến chúng bị tách rời với bờ bên kia, không cách gì chi viện Tiểu Bột Luật, Thượng Gia Tố đã trơ mắt nhìn thấy Tượng Hùng chúa công bị Lý Khánh An một tiễn bắn rơi xuống vực thẳm vạn trượng.
Sau sự kiện đó hắn đã bị lão tán phổ Xích Tổ Đức Tán phạt nặng, bị đày đi Thất Bá thành tu sửa miếu tự, mãi đến sau khi tân tán phổ lên ngôi thì hắn mới được trọng dụng lại. Lần này hắn cùng Thượng Tức Đông Tán đến chinh phạt An Tây, hắn là chủ soái của tiền quân.
Nhìn trận mưa đá đến bất chợt này, cặp mày của Thương Gia Tố lại nhăn lại, hắn đang lo lắng cho sự thay đổi thất thường của khí hậu. Binh sĩ Thổ Phồn vạn dặm trường chinh đến đây, nếu không thé thích hợp được với khí hậu vùng này, một khi ngã bệnh thì hậu quả sẽ cực nghiêm trọng. Bệnh hoạn là một trong những mối uy hiếp lớn nhất với chiến tranh cao nguyên, không những với quân Đường, mà với quân Thổ Phồn cũng thế, Quân Đường lo dễ bị mắc các chứng bệnh của cao nguyên, còn người Thổ Phồn thì người lại, từ cao nguyên đến vùng thấp hơn, bọn chúng cũng rất dễ bị bệnh.
Lúc này, quân đội đủ theo tuần tra quân Đường đã quay về, thiên phu trường đi đầu đương bâm báo với Thượng Gia Tố: “Tướng quân, quân ta không đuổi theo kịp quân Đường, tốc độ của chiến mã họ quá nhanh.”
“Một lũ ngu ngốc!”
Thượng Gia Tốc dữ dằn mắng nhiếc một câu, nhưng mặt khác trong lòng hắn không khỏi lo lắng, mã tốc quân Đường nhanh như thế, vậy có phải cũng đồng nghĩa kỵ binh của bọn họ sẽ không phải đối thủ của quân Đường? Hắn có phần tâm linh bất yên, hoảng loạn huơ tay nói: “Truyền quân lệnh của ta xuống, đại quân đóng trại tại chỗ, nghỉ dưỡng một ngày.”
Đội kỵ binh tuần tra của quân Đường vừa phóng nhanh vào rừng đã gặp được mười lăm huynh đệ khác đang đợi mình trong đây. Ngoài bị tổn thất một con chiến mã ra, tất cả binh sĩ không thiếu một ai, đã thế còn thu hoạch không ít vật phâm cùng hai mươi mấy con chiến mã.
Binh sĩ tuần tra của quân Đường tạm thời trú mưa trong rừng, hai đội chính và phó chính cùng năm hóa trường đều tụ tập lại để mở hội nghị ngắn.
Đội chính Lâm Mục nói với mọi người: “Các vị, vừa nãy ta cũng có nhìn thấy, có ít nhất vài ngàn đại quân Thổ Phồn, nhưng cũng thật đáng tiếc là chúng ta ở phía dưới, đại quân Thổ Phồn ở trên cao, chúng ta không thể nhìn thấy toàn mạo của quân địch, không biết đích thực họ có bao nhiêu người, và về sau sẽ còn có bao nhiêu quân đến nữa, những điều này chúng ta đều khó mà biết được. Nếu chúng ta quay về sẽ khó mà đối diện với La tướng quân, nên ta quyết định chúng ta sẽ chia một làm ba, ba mươi huynh đệ đi về bẩm báo trước, còn hai nhóm người còn lại mỗi nhóm mười huynh đệ, một phụ trách giám sát tình hình trước mắt của quân Thổ Phồn, nhóm còn lại sẽ tiếp tục đi về hướng nam, đi thám xem chúng còn tiếp tục có đại quân đến tập hợp phía sau không. Ta và Vương phó đội nhất định sẽ mỗi người dẫn một nhóm ở lại, còn các huynh đệ khác sẽ theo quy củ cũ, chúng ta sẽ rút thăm quyết định.”
Rút thăm để định sinh tử là truyền thống trong An Tây quân, năm xưa khi Lý Khánh An vẫn là một lữ soái xích hầu nhỏ nhoi hắn đã thường rút thăm đề quyết định nhiệm vụ với thủ hạ.
Cách rút thăm rút đơn giản, Lâm Mục tìm năm nhánh cây khô đến, ba dài hai ngắn, sau đó hắn nắm hết trong tay, phần để lộ ra ngoài đều dài như nhau, ai rút được thăm ngắn sẽ ở lại, tiếp tục chấp hành nhiệm vụ nguy hiểm.
Đây là lựa chọn rất công bằng, Lâm Mục quay lưng lại, xếp đều năm nhành cây lại, xong thò tay ra nói: “Bắt đầu rồi! Ai chọn trước?”
Năm hỏa trường lần lượt đi lên rút thăm, thật trùng hợp là đệ nhị hỏa và đệ tứ hỏa lại rút trúng, đều là số chẵn, Lâm Mục vỗ vỗ vai bọn họ cười nói: “Đi đi! Đi báo một tiếng với các anh em, mưa sắp tạnh rồi, bây giờ sẽ phải xuất phát.”
Việc rút trúng hay không đều là việc rất ư bình thường, kẻ rút trúng không một câu phản nàn, kẻ chưa rút phải cũng không có gì để vui mừng. Bọn họ cùng leo lên lưng ngựa, chia làm ba đội lần lượt phóng về ba phương hướng khác nhau, Lúc này, trận mưa đá đã dừng dừng được tạnh, ánh dương cũng từ từ lộ ra, xa xa trên đỉnh núi tuyết Aerhchin đang lấp lánh ánh vàng, long lanh như món trang sức diễm lệ nhất của tự nhiên.