Bố Cáp Lạp (*Bukhara) ở Hà Trung, đây là lần thứ ba Lý Khánh An đến tòa thành thị này rồi, lần trước hắn tới là bởi vì sự đối kháng giữa giáo đồ Hỏa giáo và giáo đồ Muslim. Thù hận khiến cho tòa thành thị này cơ hồ lâm vào cảnh hủy diệt, đã cách hơn một năm trời, khi hắn lại một lần nữa bước trên tòa thành thị nổi danh trong lịch sử này, sự biến hóa của thời cuộc không ngờ lại khiến cho hắn cảm thấy một sự kinh ngạc.
Hắn còn nhớ rất rõ ràng, năm xưa giáo đồ của hai giáo phái vì tranh đoạt nền đất của một tòa miếu thở mà đã bùng nổ sự xung đột đẫm máu hết lần này đến lần khác, lúc đó hắn là đem mảnh đất này đảo sông mà trở thành hòn đảo trơ trọi, lại tháo dỡ tòa miếu tự này, ngay trên vùng đất ban đầu trồng đầy cây cối, như vậy đôi bên đều có được sự gửi gấm đối với thánh linh.
Mà hiện tại, sông ngòi đã đào nên, sông Bukhara từ nơi đây một chia thành hai, đem hòn đảo này ôm trọn vào lòng sông, cho dù bây giờ vẫn còn là tháng giêng đông giá, nước sông đông lại, trên đảo cây cối tiêu điều, nhưng có thể tưởng tượng khi mùa xuân, cành tưởng cây cối mơn mởn xanh xum như thế nào, không có cầu thông đến trên đảo, nó đã trở thành một hòn đảo trơ trọi, khi ngày tế tự kéo đến, các giáo đồ của hai phái sẽ đem hoa tươi rắc vào trong sông.
Dần dần, thời gian đã làm ngưng đọng quy cũ lại, thời gian cũng đã làm phai nhạt thù hận, đã liên kết giáo đồ hai phái lại, không chỉ là mấy chiếc cầu lớn trên sông Bukhara, còn có thương nhân của Bukhara, trong lòng bọn họ cũng có thần Quang Minh hoặc Thánh Allah, nhưng thần linh thật sự trong lòng họ lại là Khổng Phương thần, chính là những hoạt động tích cực của những người thương nhân này, làm cho tòa thành phố cô quạnh điều hiu một thời lại từ từ khôi phục nảy nở sức sống.
Đồ đạc vàng bạc và trang sức bào thạch sản xuất ở Bukhara luôn là hàng hóa lợi nhuận cao mà các thương nhân luôn theo đuổi, mà bây giờ lại có thêm một thứ giấy Bukhara, loại giấy này là có được sự phê chuẩn đặc biệt của Lý Khánh An, là một loại sản nghiệp do mấy chục công tượng của Bukhara đi Toái Hiệp học tập làm giấy, rồi từ từ hình thành nên.
Bây giờ, trong thành có gần trăm hộ xưởng sản xuất giấy Bukhara lớn nhỏ, vì mặt giấy trơn bóng nhẵn nhụi, có thể sánh ngang với giấy Trường An của Đại Đường, mà được sự ưu chuộng sâu sắc của người Đại Thực và người La Mã, càng bởi vì con đường vận chuyển buôn bán của nó rút ngắn, mà làm cho giá thành giám đi một nữa, giá cả đã có ưu thế rõ rệt hơn so với giấy Đường, dần dần, giấy Bukhara bèn đã chiếm lĩnh toàn thị trường phương tây, thậm chí văn thư của quan phương Toái Hiệp cũng đã sử dụng loại giấy này.
Lý Khánh An dưới sự đi cùng của Bukhara trưởng sứ Cù Ninh, ngồi xe ngựa thị sát tòa thành thị đã từng một thời toàn thành đảo vong này, Bukhara trưởng sứ, đây là một chính sách trọng đại do chính sự đường An Tây dưới sự chi thị của Lý Khánh An thực hiện vào tháng sáu năm nay, ở trong các nước Hà Trung thiết lập chính vụ Trưởng sứ, chủ quản chính vụ của các nước Hà Trung, còn chế độ hội nghị liên tịch được thực hiện ngay sau khi vừa mới chiếm được Hà Trung lúc đó, bây giờ đã là danh tồn thực vong, quyền lực của quốc vương các nước đã bị kiềm hãm hết, bọn họ chỉ là tượng trung của vương quốc, quyền trị an nho nhỏ vốn dĩ của bọn họ cũng đã chuyển đến trong tay chính vụ Trưởng sứ, có thể nói, đây là một bước quan trọng nhất trong việc châu huyện hóa chư quốc Hà Trung.
Trong trưởng sứ các nước Hà Trung, Samarkand trưởng sứ và Bukhara trưởng sứ là quan trọng nhất, Samarkand trưởng sứ do La Khải Minh đảm nhiệm, hắn luôn phụ trách chính vụ liên lạc của Hà Trung, Bukhara trưởng sứ Cù Ninh là một người trung niên hơn bốn mươi tuổi, vốn là Đặng Châu Nam Dương huyện lệnh, năm xưa Lý Long Cơ ứng theo lời thỉnh cầu của Lý Khánh An, từ nội địa điều đi mấy trăm quan viên đến An Tây nhậm chức, sau đó có gần một nửa quan viên đều lũ lượt quay về rồi, nhưng cũng có quan viên không chịu trở về, Cù Ninh này chính là một trong số đó, hắn dứt khoát bán luôn cả ruộng đất của quê nhà, đem thê nhi phụ mẫu đều dọn đến Toái Hiệp, chuẩn bị định cư lâu dài ở An Tây.
Hắn phụ trách năm nghìn hộ di dân Hán dân của Thạch Quốc, hắn lành đạo năm nghìn di dân vất vả gầy dựng sự nghiệp, ở phía bắc Thách Chi thành kiến lập nên Bạch Thủy huyện và Tân Uyển huyện, chính tích của hắn đã nhận được sự khãng định của Lý Khánh An, lần này ở Hà Trung kiến lập chính vụ trưởng sứ, Cù Ninh bèn được điều đến đảm đương Bukhara trưởng sứ.
Điều này đối với hắn mà nói, lại là một sự thứ thách mới, nhưng chỉ có thời gian mấy tháng; Cù Ninh bèn học được sơ sơ tiếng Túc Đặc, có thể trao đối với người bản xứ rồi.
Còn về chính tích của Cù Ninh, Lý Khánh An đã nhìn thấy rất rõ, cây cổ thụ Bukhara trải qua bao nỗi đau thương này lại bắt đầu đâm lên chồi mới.
“Bây giờ quan hệ của giáo đồ Áo giáo và giáo đồ Muslim như thế nào rồi, bọn họ có lui tới không?” Lý Khánh An mỉm cười hỏi.
“Hồi bầm đại tướng quân, bọn thuộc hạ dốc sức nâng đỡ phái ôn hòa của cả hai, để bọn họ tự mình tổ chức nên trưởng lão đoàn, định kỳ hội họp thương thảo, vấn đề gì cũng có thể bàn bạc, như vậy rất nhiều manh mối đều có thể ra tay phòng ngừa trước, chẳng hạn như tháng trước, một thiếu niên Muslim dẫn theo một cô nương Áo giáo bỏ trốn, sự việc này đã dẫn đến sự chỉ trích lẫn nhau giữa hai đại gia tộc, suýt nữa là đã gây nên sự kiện đô máu, cũng may trưởng lão hai phái đã kịp thời trao đổi thương lượng, mới bình ổn được vụ việc.”
Lý Khánh An khá có hứng thú hỏi: “Vậy đôi nam nữ thiếu niên kia đã đi đâu rồi, có tin tức gì không?”
“Ty chức nghe nói là trốn đi Trường An rồi, ở Trường An bọn họ đều là người Túc Đặc, không có sự khác biệt tôn giáo, không ai đi quản bọn họ, điều này ở Hà Trung là không thể được, hai người nếu muốn thành hôn, một bên khác buộc phải từ bỏ tín ngưỡng của mình, mà gia tộc cũng không cho phép.”
Nói đến đây, Cù Ninh thở dài một tiếng nói: “Tôn giáo khiến người ta đau đầu a!”
Nhưng Lý Khánh An lại khẽ cười nói: “Cù trưởng sứ đừng xem nhẹ mâu thuẫn tôn giáo này, đây là mấu chốt mà Đại Đường chúng ta có thể thống trị Hà Trung lâu dài hay không, ngươi phải nhớ lấy lời ta, chỉ cần mâu thuẫn tôn giáo của bọn họ còn tồn tại một ngày, vậy thì bọn họ sẽ còn một ngày không có ý thức quốc gia, ta không ngại thổ lộ một chút tin tức cho ngươi, An Tây chính sự đường đã chế định ra kế hoạch cụ thê rõ ràng, qua thêm năm năm nữa, khu vực Hà Trung nối tiếp dời Hán dân ba mươi vạn hộ, cổ vũ Hán Hồ thông hôn, đẩy mạnh văn hóa Hán, qua thêm mười năm nữa, Hà Trung đã có thể sửa tên thành Hà Trung đạo, thiết lập chín châu, ba mươi hai huyện, thiết lập thêm một đại đô đốc phủ, lúc đó, Đường trực đạo từ Trường An xuất phát, sẽ trực tiếp đi đến ven sông Amul.”
Kế hoạch lâu dài của Lý Khánh An làm cho Cù Ninh cũng kích động khôn xiết, hắn vừa muốn mở lời, lúc này, một thân binh ngoài xe ngựa bẩm báo nói: “Đại tướng quân, Lý Tự Nghiệp tướng quân đã đến.”
Lý Khánh An bèn cười nói với Cù Ninh: “Ta phải đi gặp Lý Tự Nghiệp, ban đêm ta mới bàn tiếp với ngươi về chính vụ của khu vực Hà Trung, còn La Khải Minh nữa, ngày mốt ta phải mở một cuộc họp với những chính vụ quan các ngươi.”
“Vậy được, ty chức không quấy rầy đại tướng quân nữa ”
Lý Tự Nghiệp là từ bên thành Na sắc Ba kéo đến, do quân Thổ Phồn đã chiếm lĩnh Thổ Hỏa La, cũng đã gây thêm sự bất an của khu vực Hà Trung, nhưng do sự cách trở của núi non, từ Thổ Hỏa La tiến quân Hà Trung không hề dề dàng, Thiết Môn quan bèn là nơi Thổ Hỏa La bắt buộc phải đi qua khi đi đến Hà Trung, quân Đường ở trên quan ải hiềm yếu này đã đóng quân một vạn tinh binh, nghiêm ngặt phòng bị Thổ Phồn xâm chiếm Hà Trung.
Ngoại trừ Thiết Môn quan, quân Hà Trung còn ở trong lãnh thổ Sử Quốc và Tiểu Sử Quốc trú đóng hai vạn đại quân, trước mắt bốn vạn quân Đường của Hà Trung hơn phân nữa đều trú đóng ở hai vùng đất này.
Phủ đô đốc của Lý Tự Nghiệp cũng đã dời đến Na sắc Ba, hắn nghe nói Lý Khánh An đã đến Hà Trung, đặc biệt từ Na sắc Ba kéo đến.
Lý Khánh An đi đến quân nha, Lý Tự Nghiệp đã sớm chờ đợi nhiều giờ, hắn vội vàng đi ra nghênh tiếp, nửa quỳ thì một quân lễ nói: “Ty chức Lý Tự Nghiệp, tham kiến Triệu vương điện hạ!”
ở An Tây có một quy củ bất thành văn, đó chính là xưng hô của Lý Khánh An, thông thường người Hán đều xưng Lý Khánh An là đại tướng quân, còn người Hồ thì xưng Lý Khánh An Triệu vương, nhưng đến chỗ Lý Tự Nghiệp lại có chút khác biệt, Lý Tự Nghiệp cũng xưng hô Lý Khánh An làm Triệu vương điện hạ, từ trên xưng hô này mà nói, bèn có thể nhìn thấy một chút tâm tư của Lý Tự Nghiệp, hắn là kiên quyết úng hộ Lý Khánh An vấn đỉnh đế vị, chỉ có như vậy, hắn thân là nhân vật đứng thứ hai của An Tây, bèn có thể thuận lợi tiếp quản vị trí của Lý Khánh An, nhưng về phần Lý Khánh An là suy nghĩ như thế nào, thì không ai biết được.
Ở đây cần phải nói thêm hai câu, An Tây quân Đường chia làm hai thể hệ nha quân và thủ quân, nha quân chia làm quân, vệ, doanh, lữ, đội, hóa sáu cấp, còn thủ quân chia làm thủ túc, trấn thú bảo ba cấp, thủ quân và nha quân là quân chính quy An Tây, do quân phương nắm quyền cai quản, ngoài ra còn có đoàn luyện quân, cũng chính là dân đoàn, thuộc về dự bị dịch, do chính sự đường khống chế.
Từ trên bề mật mà nói, hình như là văn võ chia nhà, nhưng văn võ triều Đường lại không chia nhà, quan văn cũng có thể khống chế quân chính quy, đó chính là chế độ giám quân, đây là chế độ cơ bản của Đại Đường, năm xưa Lý Khánh An chính là từng bị Biên Lệnh Thành giám quân, nhưng Lý Khánh An đã khôi phục chế độ ngự sử giám quân của Lý Long Cơ trước đây, do An Tây giám sát thự phái ra giám sát viên thường trú các quân, không chỉ giám sát quân kỷ, cũng giám sát những đại tướng chấp chưởng quân quyền này.
Do Lý Khánh An là đại tướng quân, vì vậy quân chức cao nhất của thủ hạ hắn chỉ đến tướng quân, trước mất tổng cộng có bảy tướng quân, Lý Tự Nghiệp, Phong Thường Thanh, Đoàn Tú Thực, Lý Quang Bật, Lệ Phi Thủ Du, Thôi Càn Hữu và Lệ Phi Nguyên Lễ, trong bày vị tướng quân này, người thường là căn cứ theo số thứ tự kim bài mà Lý Khánh An cho bọn họ tiến hành xếp hạng, nhưng trên thực tế trong nội bộ quân phương lại chia làm ba cấp bậc, Lý Tự Nghiệp, Phong Thường Thanh, Đoàn Tú Thực là cấp thứ nhất; Lý Quang Bật và Lệ Phi Thủ Du là cấp thứ hai; Thôi Càn Hữu và Lệ Phi Nguyên Lễ là cấp thứ ba.
Quân An Tây đẳng cấp nghiêm ngặt, vì vậy mai này Lý Khánh An nếu tranh ngôi đế thành công, vậy An Tây tiết độ sứ mới sẽ được chọn ra từ trong ba người Lý Tự Nghiệp, Phong Thường Thanh và Đoàn Tú Thực, ba người này trên thực tế đã nằm trong một trạng thái cạnh tranh.
Nhưng bây giờ lại có một cách nói khác, nói là mai này An Tây có thể sẽ một chia làm bốn, Bắc Đình tiết độ, An Tây tiết độ, Lĩnh Tây tiết độ và Hà Trung tiết độ, cộng thêm Thổ Hỏa La tổng đốc và Sinah tổng đốc, mai nay phải là lục đại chư hầu.
Nhưng bất kể là phương án nào, Lý Tự Nghiệp đều sẽ được trọng dụng, Lý Khánh An cũng rất xem trọng vị tướng lĩnh tư cách lâu đời của An Tây này, đã đem nhiệm vụ đối kháng Đại Thực trọng đại giao cho hắn.
Lý Khánh An vội vàng nâng hắn dậy cười nói: “Tự Nghiệp không cần thi lễ trọng như vậy, chúng ta đã là lão chiến hữu rồi, vẫn là tùy ý một chút mới làm cho người ta thấy thân thiết, hoặc là gọi ta là đại tướng quân, ta không thích ngươi gọi ta là Triệu vương điện hạ đâu!”
Lý Tự Nghiệp có chút ngượng ngùng gãi gãi đầu cười nói: “Trên dưới có khác, ta đâu dám tùy ý, vậy thôi được! Ta xưng hô đại tướng quân vậy.”
“Vậy là đúngrồi!”
Lý Khánh An vừa cười vừa vỗ vỗ đầu vai hắn, “Chúng ta đi vào nhà nói.”
Hai người bước vào trong nhà, trong nhà đặt một chiếc sa bàn An Tây lớn, đây là bảo bối mà Lý Khánh An đi đến đâu cũng sẽ mang theo, đến Hà Trung cũng không ngoại lệ.
Hai người ngồi xuống trước, Lý Khánh An mệnh người dâng trà xong, hắn lúc này mới hỏi: “Hãy nói về tình hình người Thổ Phồn trước, người Thổ Phồn có ý đồ xâm phạm Thiết Môn quan không?”
Lý Tự Nghiệp lắc đầu nói: “Tạm thời thì chưa có, nhưng bọn thuộc hạ đã vài lần phát hiện lính gác Thổ Phồn, bọn họ đã vượt qua sông Amul, ở vùng lân cận Thiết Môn quan tuần tra, thuộc hạ đoán rằng năm nay vào lúc giao mùa hạ thu, người Thổ Phồn sẽ đến xâm chiếm Hà Trung.”
“Phải không? Tại sao lại là lúc giao mùa hạ thu, tại sao lại là Hà Trung mà không phải Sinah, ta rất có hứng thú, ngươi hãy nói thử xem.”
“Điều này.., ty chức cho rằng người Thổ Phồn trên thực tế đã xem Sinah như vật trong túi, kẻ địch thật sự của bọn họ là quân Đường, nhất là quân Đường Toái Hiệp, vì vậy trước khi bọn họ phát binh Sinah, bắt buộc phải giải quyết xong nỗi lo sau lưng, trực tiếp đánh Toái Hiệp, sẽ rất gian khó, thuộc hạ đã suy đoán bọn họ sẽ đánh Hà Trung trước, đem một bộ phận quân Đường của Toái Hiệp dẫn dụ đến Hà Trung, sau đó mới toàn lực tiến công Toái Hiệp, còn về lúc giao mùa hạ thu, một mặt là bọn họ cần có thời gian ổn định Thổ Hỏa La, lại phải tức tốc hành động trước khi thu hoạch lương, một mặt khác giao mùa thu hạ thời tiết Sinah nóng nực, bọn họ đều là binh cao nguyên, sẽ không thể thích ứng nổi, vì vậy thuộc hạ suy đoán chắc là ở lúc tháng bảy tám sẽ động thủ với Hà Trung.”
“Không tồi! Không tồi!”
Lý Khánh An vừa cười vừa nhẹ nhàng vỗ tay nói: “Tự Nghiệp càng ngày càng tinh mắt rồi, nhưng ta còn muốn hỏi ngươi, ngươi có nghĩ đến người Tajik không?”
Nói đến người Tajik, Lý Tự Nghiệp sắc mặt trở nên ngưng trọng đứng lên, hắn bước nhanh đi đến trước sa bàn, nhặt lên cây gỗ chỉ vào phía bờ tây sông Amul của Tiểu Sử Quốc nói: “Nơi này, chính là nơi này, thuộc hạ ngày hôm trước vừa có được tình báo, ba vạn binh lực quân Đại Thực đã đi đến nơi này, đây cũng là việc thuộc hạ lo lắng nhất, quân Đại Thực phải nhúng tay vào rồi.”
“Vậy ngươi cho rằng người Tajik là muốn đối phó người Thổ Phồn, hay là muốn đối phó chúng ta?” Lý Khánh An cười hỏi.
“Thuộc hạ cho rằng người Tajik là muốn đối phó người Thổ Phồn, từ trong tay người Thổ Phồn cướp lấy Thổ Hỏa La, chúng ta sẽ không còn lời nào để nói.”
“Vậy Đại Thực không sợ chúng ta sẽ cắt đứt đường lui của bọn họ sao?”
“Điều này..Lý Tự Nghiệp ngẩn người ra, hắn cười khổ một tiếng nói: “Đại tướng quân, thuộc hạ có chút hồ đồ rồi, thu tóm đại cục thuộc hạ vẫn còn chưa làm được.”
“Đề ta nói với ngươi nhé!”
Lý Khánh An từ trong tay hắn tiếp lấy cây gỗ, chỉ vào Khurasan cười nói: “Vốn dĩ bữa tiệc thịnh soạn Thổ Hỏa La do ta dọn ra là muốn mời người Đại Thực dự tiệc, nhưng không ngờ đã đến một vị khách không mời Thổ Phồn này, Mansur chắc là cũng đã nhìn ra, hơn nữa ta đã phái sứ giả đi, cảnh cáo hắn đừng hấp tấp manh động, đương nhiên là Mansur sẽ không chịu sự uy hiếp của ta, hắn chờ đợi thời cơ có lợi nhất, thời cơ này chính là quân Đường và quân Thổ Phồn lưỡng bại câu thương, hắn có thể tiến công Hà Trung, cũng có thể tiến công Thổ Hỏa La, sẽ nhìn vào tình hình mà định, vì vậy quân Hà Trung của ngươi phải án binh bắt động, không thể để Hà Trung trống trải, còn về Thổ Hỏa La.”
Lý Khánh An cười lạnh một tiếng nói: “Thật ra ta căn bản là không để tâm đến người Thổ Phồn, chúng ta có chấn thiên lôi, quân Thổ Phồn có thể chống đỡ được sao? Ta sở dĩ chần chừ không chịu xuất binh Thổ Hỏa La, chính là muốn đợi người Thổ Phồn tăng thêm binh đến, tốt nhất là tăng đến hai mươi vạn đại quân, tác chiến ở cao nguyên bất lợi đối với bọn ta, nhưng tác chiến ở Thổ Hỏa La, bèn trúng đúng ý ta, ta phải lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở này, tiêu diệt toàn bộ người Thổ Phồn ở Thổ Hỏa La, triệt để đánh tàn Thổ Phồn, đề Thổ Phồn trong vòng trăm năm cũng khó mà trở mình.”
Nói đến đây, Lý Khánh An dùng cây gỗ lại chỉ vào Đại Bột Luật nói: “Trước khi ta đến Hà Trung, vừa mới nhận được tin tức, một đội xích hầu của chúng ta thâm nhập Thổ Hỏa La, bọn họ đã dò thám được một tình báo cực kỳ quan trọng, tán phổ Thổ Phồn sẽ vào tháng hai đến Thổ Hỏa La thị sát, như vậy chúng ta bèn có thể đem bọn họ nhốt ở Thổ Hỏa La mà ra sức đánh.”
Lý Tự Nghiệp lúc này mới hiểu rõ sự bố trí đại cục của Lý Khánh An, thì ra Thổ Hỏa La chỉ là một mồi nhử, chả trách Lý Khánh An chần chừ không chịu tiến công Thổ Hỏa La, thì ra là như vậy, trong lòng hắn hổ thẹn không bằng, mưu tính một ván cục một trận dịch hắn có thể, nhưng mưu tính thiên hạ đại cục, hắn căn bàn là làm không được, lúc này, hắn lại vội vàng hỏi: “Vậy Đại Thực làm sao? Bọn họ ở Khurasan có bảy vạn đại quân, nếu như bọn họ nhân lúc cháy nhà mà đi hỏi của Thổ Hỏa La, chúng ta phải làm thế nào?”
Lý Khánh An cười xòa, cây gỗ chỉ vào Byzantium phía bắc nói: “Ta đã đạt thành hiệp nghị với Byzantium rồi, qua thêm mấy ngày nữa, Byzantium sẽ đại cử tăng binh đến biên giới Đại Thực, tạo áp lực với người Đại Thực, nếu như người Đại Thực thật sự dám động binh với Thổ Hỏa La, vậy thì Byzantium sẽ xuất binh Armenia.
Thành A Hoán của Thổ Hỏa La, đây là thành thị lớn nhất Thổ Hỏa La, cũng là đô thành của Nguyệt Thị quốc, Lúc quân Thổ Phồn mới tấn công Thổ Hỏa La đã gặp phải chống đối quyết liệt từ nơi đây, Thượng Tức Đông Tán sau khi công hạ thành A Hoán đã cho giết ba vạn tướng sĩ đầu hàng tại đây, và lại cho binh sĩ tiến hành đại đồ sát trong thành A Hoán, dung túng chúng cướp bóc dân trong thành.
Dù cho thành A Hoán đã tan hoang, nhưng Thượng Tức Đông Tán vẫn cho đóng đô đốc phủ tại đây, vì tòa thành trì này rộng rãi và có vị trí lợi thế thích hợp nhất để thống trị Thổ Hỏa La.
Thượng Tức Đông Tán cũng chẳng quan tâm gì nhà dân bị hủy, nhưng binh sĩ của hắn phá hoại hoàng cung thành A Hoán thì lại làm hắn có phần hối tiếc, Hoàng cung thành A Hoán lớn nhất Thổ Hỏa La, và cũng là hoàng cung nguy nga nhất, có thể cho tán phổ của hắn ở khi đến thị sát Thổ Hỏa La, nhưng giờ hoàng cung đã bị hủy đi một nửa, khiến Thượng Tức Đông Tán không khỏi thiểu não. Cũng may là nền móng chưa bị hủy hoàn toàn, hắn đã hạ lệnh cho các nước Thổ Hỏa La điều tập năm vạn dân phu đến tu sửa, đồng thời cho xây dựng khuếch trương hoàng cung thành A Hoán.